Thực trạng ô tô

Để ngành công nghiệp ôtô phát triển cần có 3 yếu tố là kỹ thuật, con người và thị trường. Việt Nam có 2 yếu tố là con người và thị trường, nhưng thực tế chúng ta đã không có kế hoạch thực hiện. Cụ thể là thị trường rất tiềm năng nhưng hiện tại thì quá nhỏ hẹp. Giá xe quá cao không phù hợp với khả năng thanh toán của đại bộ phận người tiêu dùng. Hệ thống hạ tầng thì yếu kém không đáp ứng cho thị trường ôtô phát triển. Con người thì thiếu và không được đào tạo bài bản.

Bên cạnh đó chính sách  thuế đang xây dựng bởi những người không am hiểu về ôtô. Ông  Đinh Văn Đính – Trưởng ban cơ khí Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam cho biết chúng ta luôn muốn phát triển công nghiệp ôtô, muốn có một ngành công nghiệp ôtô mạnh. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải có thị trường quy mô lớn. Nhưng  ngược lại, ta lại dùng thuế tiêu thụ đặc biệt tới 50% để hạn chế tiêu dùng ôtô. 

Theo ông Ngô Văn Trụ, Phó vụ trưởng vụ Cơ khí luyện kim và hoá chất (Bộ Công thương), để phát triển công nghiệp ôtô, điều mấu chốt ở đây là vấn đề nội địa hoá. Nhưng hiện nay ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam phát triển kém. Chúng ta mới có 40 DN đầu tư nước ngoài và 30 doanh nghiệp trong nước tham gia sản xuất linh kiện ôtô và chủ yếu sản xuất các phụ tùng đơn giản như: săm, lốp, ghế, ắc quy, dây điện… Công nghiệp phụ trợ muốn phát triển thì phải dựa vào sản lượng xe bán ra. Quy mô thị trường dưới 100.000 xe/năm thì còn lâu mới phát triển được, ai cũng hiểu điều đó.

Ông Phan Đăng Tuất – Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách Công nghiệp (Bộ Công thương) cho biết hiện nay cả nước mới có khoảng 130.000 ôtô cá nhân trên tổng số 84 triệu dân. Con số này chỉ nói lên một điều là Việt Nam chưa có thị trường ôtô. Với lượng xe tiêu thụ  khoảng 60.000 xe/năm, rất khó để ngành công nghiệp ôtô phát triển.

Tuy đã có bước phát triển rõ rệt so với thời kỳ trước tuy nhiên nghành công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn còn rất chậm tiến so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

+ Nhà nước vẫn còn chính sách bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước.

Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của chính sách bảo hộ áp dụng trong ngành công nghiệp ôtô tại Việt Nam là hàng rào hải quan chống lại ôtô nhập khẩu.

         Ví dụ minh họa: trước tháng 1/1999, ôtô nhập khẩu bị đánh thuế 155% (55% là thuế nhập khẩu, 100% là thuế tiêu thụ đặc biệt); sau thời gian này thì bị cấm nhập; năm 2004 thì chịu thuế đến 180% (chưa kể thuế giá trị gia tăng); đến 7/8/2007, thuế nhập khẩu lại giảm từ 80% xuống còn 70%; và cho đến 8/2008 thuế nhập khẩu là 83% và đang có thông tin sẽ tăng lên 94%.

         Hậu quả là, cạnh tranh trên thị trường ôtô tại Việt Nam rất yếu. Giá bán xe lắp ráp rất ít bị quyết định bởi mối quan hệ giữa cung và cầu. Và tất nhiên, trong một môi trường “tuyệt vời” như vậy, giá này sẽ được đẩy lên cao để tối đa hóa lợi nhuận.

Khả năng cạnh tranh và phát triển của ngành công nghiệp ô tô nước ta là rất cao. Tuy nhiên chúng ta cần có những chính sách, chiến lược đúng đắn đê sớm đưa nước ta thành một nước có nền công nghiệp ô tô phát triển.